Muống biển chữa cảm, sốt rét

Hỏi: Xin cho hỏi rau muống biển có công dụng chữa bệnh gì?

(Trần Văn Hoài - Kiên Giang)

Trả lời: Rau muống biển tên khoa học Ipomoea biloba Forsk, (Ipomoea maritima R. Br., Convolvulus pescaproe L. Batatas maritima Bojer).

Thuộc họ Bìm bìm Convolvulaceae.

Mô tả cây

Muống biển là một loại cây cỏ mọc bò rất dài, không mọc leo, phân rất nhiều cành, thân tím như thân rau muống ăn, nhưng đặc và không rỗng như thân rau muống, có 2 đường rãnh nông hai bên thân dọc theo chiều dài từ mấu nọ đến mấu kia. Lá mọc cách gần như nhình vuông, phía cuống hình tim, đầu hơi tròn và xẻ thành hai như hình móng chân con trâu, cuống dài 5 - 7cm có khi tới 12cm, phiến lá dài 4 - 6cm, rộng 5 - 7cm, hai mặt đều nhẵn. Lá non có hai mảnh cụp vào nhau. Hoa lớn màu hồng tím giống như hoa rau muống, mọc thành xim ít hoa ở kẽ lá, cuống chung dài 2 - 4cm, 5 nhị màu trắng đính vào cuối tràng hoa, bao phấn chia 2 ngăn nứt theo chiều dọc, tua nhị phình to phía dưới, có lông, bầu thượng.

Khi ngắt lá có nhựa đục trắng chảy ra giống như nhựa khoai lang. Dây mọc bò lan trên mặt đất, bò lan đến đâu rễ mọc đến đấy.

Công dụng và liều dùng

Nhân dân dùng muống biển làm thuốc chữa cảm mạo, sốt, sốt rét, tê thấp, chân tay đau nhức, mỏi, thông tiêu tiện, chữa thủy thũng, đau bụng.

Dùng ngoài, lá muống biển tươi giã nát đắp lên các vết loét, mụn nhọt đang mưng mủ. Hoặc phơi khô, tán nhỏ, rắc lên những nơi bị bỏng.

Tại Campuchia có nơi dùng lá giã nhỏ, trộn với lá dây đau xương, củ sả và vỏ dừa đốt lấy khói xông lên chỗ trĩ hậu môn.

Liều dùng hàng ngày 20 - 30g dưới hình thức thuốc sắc hay xông.

(Theo Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam)

của GS. ĐỖ TẤT LỢI

Vị thuốc có tên chó

Cây chó đẻ:

Còn được gọi với nhiều tên khác như: chó đẻ răng cưa, diệp hạ châu, cam kiềm, rút đất, khao ham (Tày), tên khoa học Phyllanths urinaria L., tên đồng danh: P. amarus, P. cantoniensis Hornem., P. alatus Blume, thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).

Sở dĩ có tên chó đẻ vì người ta quan sát thấy những con chó mẹ sau khi sinh thường đi tìm loại cây này ăn để chữa ứ huyết. Cây có tên là diệp hạ châu, vì có các hạt tròn nằm dưới lá. Ngoài ra còn có nhiều tên khác: trân châu thảo, diệp hạ châu đắng, diệp hòe thái, lão nha châu...

Vị thuốc có tên chó

Chó đẻ là loại cây sống hàng năm hoặc sống dai, cao 20 - 30cm. Thân nhẵn, màu đỏ, thường phân nhánh nhiều. Lá mọc so le, xếp hai dãy sít nhau có hình thuôn bầu dục hay trái xoan ngược, mặt trên màu xanh nhạt, mặt dưới hơi mốc. Hoa mọc ở nách lá, hoa đực ở ngọn cành, hoa cái đơn độc ở gốc cành. Quả nang hơi đỏ, hình cầu, có gai nhỏ, chứa 6 hạt hình tam giác, màu nâu nhạt.

Mùa hoa quả tháng 4 - 8.

Ở Việt Nam, chó đẻ mọc hoang khắp nơi, thường thấy ở các bãi cỏ, ruộng vườn, đất hoang. Người ta thường thu hái toàn cây quanh năm, tốt nhất vào mùa hè - thu, rửa sạch đất cát, cắt khúc ngắn, dùng tươi hoặc phơi trong chỗ râm mát để dùng dần.

Trong chó đẻ răng cưa có các thành phần flavonoid, alcaloid phyllanthin và các hợp chất hypophyllanthin, niranthin, phylteralin.

Theo Đông y, chó đẻ có vị đắng, tính mát, tác dụng lợi tiểu, tiêu độc, sát trùng, tán ứ, thông huyết, điều kinh, thạch can nhiệt, làm sáng mắt, hạ sốt.

Thường dùng chữa viêm hầu họng, ung nhọt, đinh râu, lở ngứa, chàm má, tưa lưỡi, viêm da thần kinh, sản hậu ứ huyết.

Ngày nay, người ta ứng dụng điều trị viêm thận phù thũng, viêm niệu đạo, viêm ruột, lỵ, viêm kết mạc, viêm gan.

Ngày dùng 8 - 16g khô, sắc uống, hoặc dùng cây tươi 20 - 40g rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước uống, bã dùng đắp lên chỗ đau.

Dùng ngoài, lấy cây tươi rửa thật sạch với nước muối, giã nát, đắp lên vết thương chảy máu, mụn nhọt hoặc các đầu khớp bị sưng đau.

Chú ý phân biệt với một cây khác, cũng mang tên chó đẻ răng cưa, còn có tên cam kiềm, tên khoa học Phyllantus niruri L., thuộc họ Thầu dầu. Phân bố ở một số tỉnh thuộc châu thổ sông Hồng (Thái Bình, Hải Dương...).

Về hình dạng thực vật, cây này cũng giống như cây thân xanh nói trên, song cây chỉ cao khoảng 5 -10cm; thân, cành có màu tía đỏ, quả có màu đỏ.

Người ta thường dùng toàn cây, sắc đặc, lấy nước ngậm chữa đau răng lợi, hôi miệng, thông tiểu, thông sữa, còn dùng trị viêm gan vàng da.

Cây đuôi chó:

Còn gọi là đuôi chồn tóc, đuôi chồn quả đen, Hầu vĩ tóc, tên khoa học Uraria crinita (L) Desv.ex D., thuộc họ Đậu (Fabaceae).

Đuôi chó là loại cây nhỏ, cao khoảng 1,5m. Lá có 3-5 lá chét hình trái xoan dài. Hoa màu tím nhạt, xếp thành chùm ở ngọn, hình trụ, dạng bông. Quả hình đậu, đen bóng có 3 - 5 đốt.

Cây ra hoa vào khoảng tháng 7 - 9.

Cây đuôi chó mọc hoang khắp nơi, thường gặp trong các thảm cỏ cây bụi khô, rừng tre.

Người ta thu hái toàn cây để làm thuốc, tốt nhất vào mùa hè- thu, rửa thật sạch đất cát, dùng tươi hay phơi khô để dùng dần. Lá tươi cũng có thể ăn như một loại rau.

Theo Đông y, vị thuốc đuôi chó có vị ngọt dịu, tính mát, tác dụng sát trùng, cầm máu, tiêu viêm. Thường dùng chữa cảm lạnh, ho, ho ra máu, đi tiểu ra máu, đầy hơi, tiêu chảy, trẻ em biếng ăn và suy dinh dưỡng.

Ngày dùng 30 - 50g khô sắc uống.

Trong cây đuôi chó có chứa hàm lượng lớn chất flavonoid, có tác dụng như một chất chống oxy hóa mạnh, được dùng bào chế thành thuốc chống viêm, giảm đau, kháng khuẩn.

Rễ của cây có tác dụng điều trị tiêu chảy.

Qua nghiên cứu, cây đuôi chó có thể giúp cơ thể tăng cường hấp thụ canxi, đồng thời tăng cường sản sinh dịch khớp, tái tạo xương và sụn khớp, phục hồi khớp bị thoái hóa.

Ở Malaysia và Ấn Độ, rễ sắc nước uống dùng trị ỉa chảy. Cũng được sử dụng để trục giun và dùng cho trẻ em bị đầy hơi và phụ nữ sau khi sinh.

Ở Indonesia, người ta dùng toàn cây chữa lỵ, ỉa chảy, lá lách sưng to, đau gan, rò, mụn mủ, bướu.

Ở Ấn Độ, lá giã ra dùng ngoài đắp vào người khi bị sưng lách, sưng gan; hoa được dùng làm chế phẩm trị mụn xuất hiện sau bệnh đậu mùa.

Dùng ngoài, lấy cây tươi rửa thật sạch, giã nát, đắp chữa mụn nhọt.

Lưu ý: phụ nữ có thai kiêng dùng.

Cỏ đuôi chó:

Còn gọi là cẩu vĩ thảo, khuyển vĩ thảo, quang minh thảo, tên khoa học Setaria viridis (L.) Beauv., thuộc họ Lúa (Poaceae).

Cỏ đuôi chó là cây thảo hàng năm. Thân cao khoảng 10 - 50cm. Lá phẳng, hình dải, có mũi nhọn dài, có lông rải rác ở mặt trên, với mép dày, chùy dạng bông, hình trụ, dày đặc hoa, màu lục hay đỏ. Bộ phận làm thuốc là thân và hạt, thu hái tốt nhất vào mùa hè - thu. Cỏ đuôi chó thường mọc ở các bãi cỏ, ruộng hoang khắp nơi trong nước.

Vị thuốc có tên chó

Theo Đông y, cỏ đuôi chó có vị đạm (nhạt), tính lương (mát), tác dụng thanh nhiệt, lợi niệu, giải độc tiêu thũng. Thường dùng chữa trúng nắng, can nhiệt gây đỏ mắt, thũng độc, tiểu tiện khó, tiểu ít, tiểu nóng.

Ngày dùng 12 - 16g, dạng thuốc sắc uống. Dùng ngoài rửa thật sạch, sắc lấy nước rửa mắt đỏ đau. Người ta còn dùng thân cỏ đuôi chó làm thức ăn gia súc. Hạt cũng được dùng để nấu cháo, nấu chè.

Rong đuôi chó:

Rong đuôi chó còn gọi là đuôi chồn, tên khoa học Ceratophyllum demersumL., thuộc họ Rong đuôi chó (Ceratophyllaceae).

Cây thảo sống dai, không có rễ, mọc chìm lơ lửng trong nước; cành dài, nhỏ. Lá mọc đối, 2 cái ở mỗi mắt, phiến lá lưỡng phân 3 - 4 lần làm thành các đoạn nhỏ hình sợi hơi cứng, mép có răng. Hoa đơn độc ở nách lá, cùng gốc; lá đài nhiều, cánh hoa trắng; nhị nhiều (đến 30), xếp thành nhiều vòng; không có chỉ nhị. Quả bế hình trứng có mũi nhọn và 2 sừng dài đến 1cm.

Ra hoa vào mùa xuân - hè.

Rong đuôi chó là loài phân bố toàn thế giới. Ở Việt Nam, cây mọc phổ biến trong các ao hồ từ vùng thấp đến vùng cao 1.500m; cũng thường được thả trong các bể cá.

Người ta dùng toàn cây (Herba Ceratophylli Demersi) để làm thuốc.

Các đoạn lá rong có chứa chất myrophyllin.

Theo Đông y, rong đuôi chó có vị nhạt, tính mát; có tác dụng thanh nhiệt giải độc, tán ứ, cầm máu.

Ở Trung Quốc, cây được dùng trị nội thương xuất huyết, viêm tuyến mang tai, viêm khí quản mạn tính. Ngày dùng 4-8g.

Ở Ấn Độ, cây được dùng chữa thiểu năng mật và dùng trị bò cạp đốt.

Cây chân chó:

Còn gọi là cẩu cước thảo, cây hoa khế, cáp mộc hình sao, tên khoa học Crai biodendron stellatum (Pierre) W.W Sm., thuộc họ Đỗ quyên (Ericaceae).

Cây gỗ nhỏ thường xanh, cao 4 - 6m, nhánh non không lông. Lá có phiến bầu dục, không lông, mặt dưới có tuyến nhỏ và gân phụ làm thành mạng mịn rõ, có lông mịn, hoa màu trắng, hình chuông. Quả nang có 5 cạnh tròn, 5 ô. Hạt có cánh.

Cây chân chó thường gặp ở vùng núi cao tỉnh Lâm Đồng, Kon Tum. Người ta thu hái rễ cây và vỏ cây để làm thuốc.

Rễ cây chân chó được dùng chữa phong thấp, viêm đau khớp xương. Ngày dùng 12 - 16g, sắc uống hoặc ngâm rượu uống.

Vỏ cây chân chó sắc đặc dùng để rửa các vết thương.

Cây cẩu tích:

Còn gọi là cẩu tồn mao, kim mao cẩu tích, cây cu ly, cây lông khỉ, tên khoa học Cibotium barometj (L).J.Sm., thuộc họ Cẩu tích (Dicksoniaceae).

Cây cẩu tích là một loại dương xỉ thụ trạng, thân rễ to, ngắn, hơi nạc, phủ lông tơ dày màu vàng nâu. Lá kép 3 lần lông chim, dài tới 2m, mặt dưới có nhiều túi bào tử màu nâu nhạt. Mùa có bào tử tháng 10-1.

Cẩu tích mọc hoang khắp nơi ở miền núi, nơi đất ẩm, gần bờ suối. Người ta thu hái thân rễ quanh năm, tốt nhất vào mùa hè-thu. Đem về cắt bỏ rễ con và cuống lá, cạo hết lông vàng (để riêng dùng làm thuốc cầm máu). Sau đó rửa sạch, thái lát hay cắt từng đoạn dài 4 - 10cm, phơi hoặc sấy khô. Có khi đồ chín mềm rồi mới đem phơi khô, khi dùng thường tẩm dược liệu với rượu, để ủ một đêm rồi đem sao vàng.

Theo Đông y, cẩu tích có vị đắng ngọt, tính ấm, vào hai tinh can, thận, tác dụng bổ can thận, mạnh gân cốt, trừ phong thấp. Thường dùng chữa phong hàn thấp gây đau lưng, nhức mỏi tay chân, đau thần kinh hông, khí hư, người cao tuổi đi tiểu són, tiểu không cầm được, tiểu nhiều lần, tiểu dắt.

Ngày dùng 10 - 20g khô, dạng thuốc sắc hoặc ngâm rượu uống. Thường kết hợp với ngưu tất, đồ trọng, ý dĩ, mộc qua, cốt toái bổ, đương quy, tang chi... để chữa phong thấp, can thận yếu. Lông vàng dùng đắp lên các vết thương chảy máu để cầm máu.

Những người thận hư mà có nhiệt (nội nhiệt), tiểu tiện bí, nước tiểu màu vàng đỏ, thì không nên dùng cẩu tích.

Cây gan chó:

Còn gọi là rau gan chó (cẩu can thái), cây gan heo, lục dũng thái, thanh xà thái, cây lá diễn, tên khoa học Dicliptera chinensis (L.) Nees, thuộc họ Ô rô (Acanthaceae).

Gan chó là cây thảo sống hàng năm hay vài ba năm, cao 30 - 80cm, thân và cành non có 4 cạnh, có lông tơ, các mấu phình to tựa như đầu gối. Lá mọc đối, màu xanh lục, phiến lá hình trứng thuôn, đầu và gốc đều nhọn, có lông thưa. Hoa màu trắng hồng, mọc thành xim ở nách lá và ở đầu cành. Các lá bắc hình trái xoan. Quả nang ngắn, có lông tơ ở phía đầu. Hạt dẹt. Mùa ra hoa từ mùa đông đến mùa hè.

Cây gan chó mọc hoang ở chỗ ẩm ướt và cũng được trồng để lấy lá nấu canh và lấy toàn cây làm thuốc. Người ta thu hái quanh năm, dùng tươi hoặc phơi khô. Loại cây này gặp nhiều ở các nước Đông Nam Á.

Theo Đông y, cây gan chó (lá diễn) có vị ngọt nhạt, tính mát, tác dụng thanh nhiệt, tiêu viêm, lợi tiểu, hương huyết, sinh tân dịch.

Thường dùng chữa cảm mạo phong nhiệt, sốt cao, viêm phế quản, viêm gan cấp, viêm kết mạc, viêm ruột, lỵ nhiệt, phong thấp, viêm khớp, đi tiểu ít, đi tiểu ra đường trấp. Ngày dùng 30 - 60g cây khô hoặc 60 - 120g cây tươi, dạng thuốc sắc uống.

Dùng ngoài, lấy lá tươi rửa thật sạch, giã nát, xoa trị lở sưng, rôm sảy, mụn nhọt, bỏng rạ.

Chữa cảm mạo phong nhiệt, thường dùng bài thuốc: cây gan chó 40 - 50g, rau má 40g, bạc hà 20g, kinh giới 20g, sắc với 750ml nước, còn lại 200ml, chia 2 lần uống trước bữa ăn. Người ta còn dùng lá cây gan chó để nấu canh với thịt heo nạc, ăn rất thơm ngon, lại có tác dụng nhuận gan, giải nhiệt độc có hiệu quả.

Lương y Đinh Công Bảy

Mách bạn thuốc hay: chữa sốt do nắng nóng bằng quả me

Quả me là quả của cây me, quả màu nâu, bên trong chứa cùi thịt và nhiều hạt có vỏ cứng. Cùi thịt quả non rất chua trong khi cùi thịt của quả chín có vị ngọt hơn. Theo nghiên cứu hiện đại, trong quả me có nhiều vitamin C, B, khoảng 14% acid tartaric và một số nhỏ malic acid... giúp kích thích vị giác, cải thiện tình trạng kém ăn, mệt mỏi do nắng nóng hay buồn nôn, giảm khẩu vị do mang thai. Trái me góp phần bù nước, điện giải, cung cấp vitamin, khoáng chất, vị chua mặn giúp giải nhiệt. Me là loại quả dân dã được bán nhiều ở các chợ nhất là vào những tháng đầu hè. Quả me không chỉ là gia vị chế biến các món ăn mát bổ trong mùa hè như canh cá, nước rau muống luộc dầm me, làm ô mai... mà còn là vị thuốc. Thuốc từ quả me rất dễ làm mà chữa bệnh lại hiệu quả. Trong Đông y, quả me có vị chua, tính mát, thanh nhiệt, giải khát, tăng cường tiêu hóa. Chữa các bệnh: phụ nữ mang thai nôn nghén, chán ăn; chữa ho, làm ấm bụng, kích thích tiêu hóa; trị chứng hay chảy máu chân răng; chữa sốt do nắng nóng...

Phụ nữ mang thai nôn nghén, chán ăn: Quả me xanh 30g, đường trắng 10g. Me cạo vỏ cho vào nồi nấu với 300ml nước, đun còn 200ml, chắt nước bỏ bã. Cho đường quấy đều, chia uống 3 lần trong ngày. Uống trong vài ba ngày liên tiếp. Hoặc ngày ngậm 5 - 7 lần ô mai me.

Quả me.

Chữa ho, làm ấm bụng, kích thích tiêu hóa: Ngậm ô mai me vài lần trong ngày. Cách làm ô mai me: Quả me xanh đem cạo vỏ ngoài, rửa sạch, để ráo nước, giã nát với gừng tươi cho thật nhuyễn, loại bỏ xơ. Thêm đường đủ ngọt. Đun nhỏ lửa, đảo đều cho bay bớt nước. Trộn với bột cam thảo vừa đủ khô, rồi đóng khuôn làm thành dạng ô mai. Bài thuốc này vừa đơn giản mà lại hiệu quả.

Trị chứng hay chảy máu chân răng: 3 - 5g thịt từ quả me chín pha với một chén nước ấm uống trong ngày, uống vào buổi sáng sau bữa ăn. Dùng liên tục trong 7 ngày. Hoặc 20g quả xanh, nạo bỏ vỏ, đun với hai bát nước còn một bát, chia uống hai lần trong ngày, khi uống có thể cho thêm ít đường hoặc mật ong. Uống từ 5 - 7 ngày.

Giải nhiệt ngày hè: 20g thịt quả me chín pha với 200ml nước, khi pha cho thêm ít đường, khuấy đều, uống hàng ngày. Cách làm này rất đơn giản mà hiệu quả trong những ngày hè nóng bức.

Chữa sốt do nắng nóng: 15g quả me xanh đã nạo vỏ, đem đun khoảng 1 bát nước, khi sôi dầm nát quả me, sau đó bỏ vỏ và hạt, chắt lấy nước, khi uống pha thêm mật ong. Bài thuốc này, giúp cơ thể hạ nhiệt nhanh chóng, người bệnh cảm thấy thèm ăn.

Giúp giảm đau nhức xương khớp: 100g quả me xanh, đem đun với nước, khi chín vớt ra dầm nát lấy phần thịt (bỏ vỏ và hạt), để nguội trộn với muối đã giã nhỏ thoa đều lên chỗ xương khớp đau nhức, nên thoa vào trước các giấc ngủ trưa và tối. Mỗi liệu trình trong 7 ngày.

Bác sĩ Hoàng Minh

Các bài thuốc thuốc từ cây hành ta

Hành ta là gia vị của nhiều món ăn, là vị thuốc giàu dược tính. Theo Y học cổ truyền, hành ta vị thuốc còn gọi thông bạc, vị cay, khí ấm, tính bình, tác dụng giải biểu, hòa trung, sát trùng, thông kinh, lợi tiểu... trị chứng thương hàn, phong nhiệt, đau đầu, phong tê thấp... Hành hoa thuận khí an thai, chi huyết hòa trung, ích 5 tạng, giải được thuốc nóng, cá thịt độc...

Tài liệu còn cho biết hành có chứa protein, chất béo, chất xơ, canxi, phospho và kali, caroten, alixin và đặc biệt hành có công năng kháng vi khuẩn, virut, nấm trong cơ thể. Hành giàu vitamin và khoáng chất, ít năng lượng. Người bị cảm cúm, tim mạch, huyết áp, đái tháo đường, viêm nhiễm, béo phì thừa cân, ngoại cảm phong hàn, nội thương thấp trệ đều có thể dùng hành...

Chữa phụ nữ có thai bị cảm (cảm lạnh, cảm cúm, ho thở, nhiều đàm, tâm phiền bứt rứt): hành hoa cả cây 30g, hoặc thêm vỏ quít (trần bì) 12g. Sắc nước uống ấm.

Chữa phụ nữ động thai (đau bụng dưới, mỏi thắt lưng, có khi ra dịch màu hồng nhạt): hành hoa cả rễ một nắm 40g, nấu nước uống.

Cháo hành gừng tía tô trị cảm cúm.

Chữa chóng mặt: biểu hiện khi nằm cũng chóng mặt do đàm thấp huyết ứ. Dùng hành xào giá đậu thịt heo hoặc các món ăn khác cho nhiều hành mà ăn.

Chữa đái tháo đường (người đái tháo đường mà tay chân tê lạnh): ăn các món xào, nấu canh, nấu súp, hủ tiếu, phở, cháo nên cho hành nhiều hành.

Chữa đau tức ngực sườn do tâm thống huyết ứ (hay đau tức ngực, khó thở hồi hộp...): hành hoa, hoặc hành củ xào, luộc, ăn tuần vài lần.

Chữa tắc tia sữa (tắc tia sữa, vú sưng đau): hành hoa một nắm 40g. Sắc nước uống.

Chữa bí tiểu (tiểu khó phải rặn mải mới ra vài giọt, bụng tức): hành cả cây giã xào nóng đắp chườm bụng dưới cho ấm vào trong, kết hợp sắc nước cho uống rất hay.

Chữa chứng âm hư ngoại cảm (người gầy gò, sợ gió không ra mồ hôi, cảm ho): hành 20g, đậu xị 12g, cát cánh 10g, sinh khương 6g, thục địa 16g, mạch môn 10g. Sắc uống ấm.

Chữa cảm cúm thông thường (đau đầu nghẹt mũi, không ra mồ hôi): hành hoa, tía tô, gừng tươi nấu cháo ăn đắp chăn cho ra mồ hôi.

Chữa mụn nhọt: dùng hành củ nướng chín giã nát đắp vào mụn nhọt khi còn nóng.

Chữa đau bụng do giun (đau cơn, buồn nôn có khi nôn ra giun): hành tươi 40g giã vắt nước cốt trộn dầu mè cho uống.

Kiêng kỵ: Hành vị cay khí ấm giải biểu ra mồ hôi, vì vậy người nội nhiệt, ra nhiều mồ hôi, đau mắt đỏ, đau đỉnh đầu miệng khô khát, mặt đỏ, tiểu vàng, đại tiện khó, hạn chế dùng hành hoặc dùng hành nên kết hợp nhiều món ăn vị thuốc khác.

Lương y Minh Phúc

Mướp đắng làm giảm nồng độ men gan

Sở dĩ mướp đắng có tác dụng này là vì: mướp đắng có rất nhiều nước, nước có công dụng chuyển chất độc tới thận để thải ra ngoài. Mướp đắng lại có tính hàn, bớt sinh nhiệt, giảm nhiễm độc do nóng trong. Mướp đắng còn có tác dụng tăng cường chức năng gan, nên tăng khả năng thanh thải cho cơ thể. Mướp đắng còn có kháng sinh tự nhiên, nên có khả năng tiêu diệt các mầm bệnh gây độc.

Mướp đắng giàu chất xơ có tác dụng kích thích vận động đường mật nên tốt cho tiết mật. Mướp đắng còn có tác dụng làm giảm nồng độ các men gan viêm như: AST, ALT (sự gia tăng các men này là một dấu hiệu cho tế bào gan đang bị viêm nặng). Mướp đắng còn được thực nghiệm chứng minh làm giảm nồng độ bilirubin trong máu (tăng bilirubin là một biểu hiện chứng tỏ gan chuyển hóa kém, đường mật đang bị tắc).

Vì thế mà mướp đắng là một loại quả rất tốt để điều trị các bệnh gan mật có tác dụng lợi gan, lợi mật nên mẹ bạn hoàn toàn có thể sử dụng.

Cỏ mật cá giải độc

Cỏ mật cá còn có tên khác là mật đất, thằm ngăm đất, sản đắng, người Thái gọi là co kham đin... thuộc họ hoa mõm sói. Là loài cây thân cỏ, sống hằng năm cao khoảng 20cm, phân rất nhiều nhán. Lá mọc đối, có khía răng, cuống dài, có rìa cánh. Hoa mọc thành chùm ở kẽ lá. Quả nang dẹt, nằm trong đài còn lại, trông giống con hến. Hạt hình trụ, màu vàng, hơi thắt ở giữa. Toàn cây có vị rất đắng, do đó có tên là “mật đất” hay “mật cá”. Mùa hoa quả vào tháng 9 - 11. Cây mọc hoang dại ở những nơi ẩm mát, ở khắp các miền rừng núi nước ta.

Bộ phận dùng làm thuốc là toàn cây, có thể thu hái quanh năm, nhưng tốt nhất là mùa hạ; phơi hay sấy khô, bảo quản nơi khô mát để sử dụng dần.

Cỏ mật cá có tác dụng thanh nhiệt giải độc.

Một số bài thuốc thường dùng

Bài 1: Chữa kém ăn, mất ngủ: Cỏ mật cá, bá tử nhân (trắc bách diệp), hạt táo chua (lấy nhân sao già), hoài sơn, hạt sen, mạch môn mỗi vị 10g. Tất cả cho vào ấm đổ 800ml nước, sắc còn 250ml nước, chia 2 lần uống trong ngày. Dùng liền 10 ngày.

Bài 2: Chữa đau bụng do giun: Cỏ mật cá 30g, bỏ gốc, rửa sạch, cho vào ấm đổ 500ml nước, sôi, đun nhỏ lửa còn 150ml nước đặc, uống lúc đói bụng, dùng liền 3 ngày.

Bài 3: Ăn uống khó tiêu, tăng cường tiêu hóa: Cỏ mật cá sao cho thơm 100g, rượu trắng 1 lít, đường hay mật ong 300g. Cho cỏ mật cá vào bình, đổ rượu, mật ong vào ngâm, mỗi ngày lắc 1 lần, ngâm trong 15 ngày trở lên. Mỗi ngày uống 1 chén con (khoảng 20ml) trước bữa ăn cơm.

Bài 4: Chữa tiểu tiện sẻn đỏ do nhiệt: Cỏ mật cá tươi, chừng 1 nắm (khoảng 20 - 30g), sắc nước uống trong ngày. Rửa sạch, đổ 700ml nước đun nhỏ lửa còn 250ml nước đặc, uống lúc đói bụng, dùng liền 10 ngày.

Bài 5: Chữa thiếu máu, người mệt mỏi, kém ăn (có thể dùng cho sản phụ sau sinh): Cỏ mật cá 10g, sâm đại hành 10g, nghệ vàng 20g. Mật cá rửa sạch cho 800ml nước đun nhỏ lửa còn 200ml; sâm đại hành và nghệ vàng thái nhỏ, sấy khô, tán bột, uống cùng với nước sắc cỏ mật cá. Ngày 1 lần, trước ăn 30 phút, dùng liên tục 7 - 10 ngày.

Bác sĩ Trần Thị Hải

Rau dền hỗ trợ trị tăng huyết áp

Theo dược tính hiện đại, trong 100g rau dền có 22 Kcal trong đó có 91g nước, 4g protein, 3g glucid, 67mg photpho, 500mg kali, 242mg canxi, 105mg magiê, 0,5mg mangan, 2mg nicotinamid, 45mg vitamin C, lutein, athocyanosid (rau dền đỏ). Rau dền giàu vitamin A, B, C, PP và chứa gần 10 acid amin cùng nhiều dưỡng chất rất có lợi cho sức khỏe.

Rau dền ăn mềm, bổ dưỡng, dễ chế biến sử dụng thích hợp nhiều lứa tuổi. Nó còn là vị thuốc rất quý chữa táo bón, mụn nhọt, huyết áp tim mạch hiệu quả và một số bệnh liên quan đến nóng nhiệt.

Theo y học cổ truyền, rau dền canh có vị ngọt, tính mát. Tác dụng thanh nhiệt, giải độc, mát gan, lợi đại tiểu tiện, cầm máu, chữa nóng nhiệt, táo bón, kiết lỵ, tiểu buốt gắt, mụn nhọt, tăng huyết áp, gan nhiễm mỡ…

Những người bị bệnh huyết áp nên ăn rau dền.

Những người bị bệnh huyết áp nên ăn rau dền.

Những ai nên ăn rau dền?

Người bị huyết áp, tim mạch nên ăn rau dền, vì rau dền rất giàu kali 500mg, là chất có vai trò cho sự hoạt động bình thường của cơ tim. Rau dền tác dụng thanh nhiệt, mát gan, hỗ trợ điều trị tăng huyết áp “thể can hỏa vượng”, biểu hiện đau đầu chóng mặt, bốc nóng lên đầu… Ngoài ra, tác dụng lợi tiểu, giảm bớt thể tích máu cũng giúp hạ huyết áp.

Rau dền rất thích hợp với người đái tháo đường, kèm táo bón vì rau dền giàu magiê 105mg, là chất có vai trò chữa trị đái tháo đường, tăng huyết áp, táo bón…

Rau dền rất tốt cho trẻ em còi cọc chậm lớn và người thiếu máu thiếu sắt. Nếu trẻ em thiếu protein sẽ chậm lớn, tầm vóc thấp bé khi trưởng thành. Rau dền chứa nhiều protein, sắt.

Rau dền rất tốt cho người cao tuổi đau nhức do loãng xương, vì rau dền có chứa nhiều canxi, photpho, có vai trò ngăn ngừa loãng xương.

Một số món ăn bài thuốc có rau dền

Chữa đi lỵ táo bón: lá rau dền, lá mơ lông thái nhỏ trộn trứng gà thêm gia vị vừa đủ hấp ăn.

Chữa chứng người nóng nhiệt nổi mụn: rau dền đỏ 200g luộc ăn cả cái lẫn nước.

Hỗ trợ trị tăng huyết áp: rau dền khoảng 250g, trai đồng vài con cho thêm gia vị gừng hành vừa đủ nấu canh ăn tuần vài lần.

Chữa chứng viêm họng ho khan: rau dền 200g, lạc 100g, giã nhỏ nấu canh.

Chữa chảy máu đường tiết niệu, chảy máu đường tiêu hóa do nhiệt: rễ rau dền phối hợp với rễ bí tươi 40-60g hoặc khô 15-20g, sắc uống.

Lương y Minh Phúc